Chuyển đến nội dung chính

Xung quanh yêu sách “Đường lưỡi bò” phi lý trên biển đông

Trước đó , vào tháng 5/2009 , Việt Nam và Malaysia đã gửi Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của liên hợp quốc các hồ sơ đăng kí riêng và chung về khu vực thềm lục địa liên quan đến hai nước. Tuy nhiên , phía Trung Quốc đã gửi công hàm tới Tổng thư kí liên hợp quốc phản đối các bản thông tin này và gửi kèm theo một lược đồ cửa khẩu “đường lưỡi bò” tự tin tuyên bố 80% diện tích Biển Đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Yêu sách này khôn xiết phi lý , đã “vi phạm trầm trọng chủ quyền , quyền chủ quyền và quyền tài phán thích hợp của Việt Nam ở Biển Đông” , khiến dư luận bất bình. Nhằm giúp thông tin thập toàn và chuẩn xác tới bạn đọc các dữ liệu lịch sử và khoa học về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa , Báo Đại kết đoàn đăng tải một số bài viết theo quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý và lịch sử chung quanh vấn đề này. Là người chuyên nghiên cứu về chủ quyền quốc gia Việt Nam trên hải phận Đông và hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa , nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nhấn mạnh: “Chủ quyền và toàn vẹn bờ cõi là điều thiêng liêng của mỗi dân tộc. Cửa khẩu của mỗi quốc gia là biểu lộ của nền độc lập dân tộc bất khả xâm phạm của quốc gia đó”. Từ các kết quả nghiên cứu của mình , ông khẳng định: “Vào thời khắc 1909 , pháp lý quốc tế có giá trị phổ quát là Tuyên bố của Viện luật pháp Quốc Tế Lausanne năm 1888. Sau thời gian ấy Hiến Chương liên hợp quốc và Luật Biển 1982 cũng là cơ sở pháp lý quốc tế mà các thành viên ký kết bao gồm các nước đang vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là Trung Quốc , Philippines , Malaysia , Brunei đều phải quý trọng. Việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đến 75% diện tích ở biển Đông trong nhiều thập niên trước đây cũng như một phía quyết định đặt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trực thuộc hệ thống giao thông hành chính của mình , đã đi xa hơn một cuộc tranh chấp trên biển , trở nên một hành động chiếm hải phận , xâm phạm toàn vẹn bờ cõi của Việt Nam , bất chấp hiến chương liên hợp quốc”. Bản đồ khu vực Biển ĐôngQuan điểm “tự mâu thuẫn nhau” Ông Phúc đã hệ thống giao thông hóa các lập luận về chủ quyền trên Biển Đông và đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo quan điểm của Trung Quốc. Đó là: Giới truyền thông Trung Quốc ý rằng , Trung Quốc là nước phát hiện và đặt tên sớm nhất cho quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) , đồng thời cũng là nước thực thi chủ quyền sớm nhất và vững bền nhất đối với quần đảo Nam Sa; Việc này đã được chứng minh bằng lịch sử và căn cứ pháp lý thập toàn , nhận được sự xác nhận lâu dài của cộng đồng quốc tế; Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai , Nhật Bản đã phát động cuộc chiến tranh xâm lăng Trung Quốc , đóng chiếm phần lớn khu vực của Trung Quốc , trong đó kể cả quần đảo Nam Sa; “Tuyên bố Cai-rô” và “Thông cáo Potsdam” cùng các văn kiện quốc tế khác đã quy định rõ việc trao trả lại bờ cõi cho Trung Quốc từng bị Nhật cướp giật năm xưa , hẳn nhiên trong đó kể cả quần đảo Nam Sa. Tháng 12 năm 1956 , Chính phủ Trung Quốc lúc bấy chừ đã chỉ định quan chức cấp cao tiếp quản quần đảo Nam Sa , đồng thời đã tổ chức lễ bàn giao trên đảo , cắm mốc đài kỷ niệm và cử quân đội đến đóng tại quần đảo Nam Sa; Năm 1952 , Chính phủ Nhật bản chính thức bày tỏ “từ bỏ tất cả mọi lợi quyền , danh nghĩa và yêu sách về lợi quyền đối với Đài Loan , các hòn đảo Bành Hồ và quần đảo Nam Sa” , từ đó quần đảo Nam Sa đã chính thức trở về với Trung Quốc... Trước thập niên 70 thế kỷ XX , các nước Philipines , Malaysia... Đách có bất kì văn bản luật pháp và bài phát biểu của nhà lãnh đạo nào nói đến khuôn khổ bờ cõi nước họ bao gồm quần đảo Nam Sa; quyết nghị của chính phủ nhiều nước và cộng đồng quốc tế cũng xác nhận quần đảo Nam Sa là bờ cõi của Trung Quốc; Bản đồ do nhiều nước xuất bản cũng ghi rõ quần đảo Nam Sa thuộc về Trung Quốc , trong đó có “Tập bản đồ mới Thế giới” do bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Ohira Masayoshi đề nghị xuất bản vào năm 1962 , bản đồ thế giới do Việt Nam tuần tự xuất bản vào năm 1960 và năm 1972... Thế nhưng , sự thực lịch sử có đúng như vậy không? Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc , cần phân tích hai vấn đề: vấn đề thứ nhất , lập luận “Trung Quốc là nước phát hiện và đặt tên sớm nhất cho quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) , đồng thời cũng là nước thực thi chủ quyền sớm nhất và vững bền nhất đối với quần đảo Nam Sa ( ? ). Việc này đã được chứng minh bằng lịch sử và căn cứ pháp lý thập toàn , nhận được sự xác nhận lâu dài của cộng đồng quốc tế” là dựa trên tài sở nào? trước nhất , về tên chỉ khu vực Biển Đông ở Đông Nam Á giữa các nước lại không thống nhất: Việt Nam làm gọi là Biển Đông , Trung Quốc làm gọi là Nam Hải và tên quốc tế lại là Biển Nam Trung Hoa ( South China sea ). Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc ý rằng , những cách gọi này rất dễ gây ra ngộ nhận về vấn đề chủ quyền quốc gia ở Biển Đông. Qua khảo sát , cộng tất cả lại 20.713 bản đồ trong nước và quốc tế , ông Phúc khẳng định: bản đồ sớm nhất có chú giải hải phận Đông của khu vực Đông Nam Á là bản đồ diễn tả khu vực đảo Hải Nam của Trung Quốc vào đời nhà Đường ( 618-907 ) của Đại học California được ghi là biển Giao Chỉ ( Chiao-chih Ocean ). Còn bản đồ liên quan đến Trung Quốc , khu vực Đông Nam Á và Việt Nam sớm nhất là bản đồ được xuất bản từ năm 1575 cho đến bản đồ được xuất bản trước năm 1814 , khu vực biển Đông không được một tác giả nào chú giải cả. Như vậy là tên Biển Đông của người Việt Nam đã có từ trước. Trong các từ điển cổ của Trung Quốc cũng chính xác không đồng đẳng về nguồn gốc tên Nam Hải. Thậm chí , Mơ hồ căn cứ vào sử liệu nào , Từ Nguyên Cải Biên Bản đã ghi thêm có thời Nam Hải đã bao hàm cả Ấn Độ Dương. Từ các chứng cớ lịch sử này , nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc khẳng định: “Chắc chắn là các soạn giả Trung Quốc đã lợi dụng các danh xưng Pháp Mer de Chine ( Méridionale ) và danh xưng Mỹ , Anh ( South China Sea ). Cả ba danh xưng này có một điểm chung là thiếu minh xác khiến có khả năng hiểu là biển của Trung Quốc ở về phía Nam. Theo quan điểm chúng ta , giới hạn Nam Hải của Trung Quốc xưa , chỉ đến ngang đảo Hải Nam như chính danh xưng đảo Hải Nam chỉ rõ như vậy”. Mặt khác , theo quy định của Ủy ban quốc tế về Biển , nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc đưa ra các tranh luận: Một là: Biển rìa ở khu vực Đông Nam Á là biển Đông chưa bao giờ được người Trung Quốc phát Lộ rõ ra. Mà ngược lại , Việt Nam là một quốc gia ven bờ biển Đông , nên ngay từ cổ xưa người Việt đã biết sử dụng biển để phục vụ người ốm cho cuộc sống sinh cơ lập nghiệp và trông coi sơn hà , đồng thời giao lưu kinh tế văn hóa với nước ngoài. Nghề biển là một nghề truyền thống của người Việt đã đi vào truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Tục xâm mình mỗi khi xuống biển và thủy chiến là sở trường của Việt Nam từ xưa đến nay. Biển Đông cũng đã đi vào ca dao phương ngôn và còn truyền khẩu cho đến hiện nay. Trên trống đồng Đông Sơn , biểu trưng của nền văn hóa biển còn đó. Trống đồng Đông Sơn cũng đã hiện diện ở hồ hết các nước trong khu vực. Hai là: Biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn nhất , cận nhất. Với nội dung này , trong tình hình hiện nay dễ gây ra ngộ nhận vì tên quốc tế của biển Đông là South China Sea làm cho Quần chúng lầm tưởng khu vực biển Đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc vì vào năm 1983 Trung Quốc cho vẽ lại bản đồ hải phận của nước CHND Trung Hoa mở rộng khu vực , bao gồm bờ biển Philippines , Tây giáp bờ biển Malaysia mà họ gọi đó là “miền Đông hải” của Trung Quốc. Dư luận quốc tế cần thấy rõ biển Nam Trung Hoa theo quy định quốc tế là không đồng nghĩa với cái làm gọi là “miền Đông Hải” của Trung Quốc. Ba là: quy định của Ủy ban quốc tế về Biển của liên hợp quốc như trên không có nghĩa là các biển rìa chẳng thể không có tên khác. Đối với biển Đông , có tên là biển Trung Hoa hoặc biển Nam Trung Hoa là do thông hiểu chưa thập toàn về lịch sử hải phận này của các nhà hàng hải phương Tây lúc họ đi qua và gọi tên , dẫn đến sau này người ta quen sử dụng chứ không hề Hữu ý nghĩa là hải phận của Trung Quốc. Đối với một số biển rìa khác , người ta cũng không nhất định phải đặt theo địa danh lục địa lớn nhất , gần nhất như trường hợp biển Nhật Bản theo cách gọi của người Nhật hay biển Đông hoặc biển Korea theo cách gọi của Hàn Quốc mà quốc tế đã bước đầu xác nhận. Ở đây chúng ta phải nhắc lại trường hợp của Philippines. Bờ biển phía Tây của quần đảo này không lấy tên là South China Sea mà được Philippines đặt tên là biển Luzón ( Luzón Sea ) vì Philippines phản đối việc tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên biển Đông. Quan điểm và lập trường của Philippines trong trường hợp này cho đến nay đã được quốc tế nhấn. Bốn là: đấu tranh để đổi lại tên “biển Nam Trung Hoa” là một vấn đề cần thiết vì tương lai đấu tranh cho chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chứ không chỉ là đổi tên cho ăn nhập với vị trí địa lý hay cách gọi của người Việt Nam. Vấn đề thứ hai , về các lập luận của Trung Quốc căn cứ vào “Tuyên bố Cai-rô” và “Thông cáo Potsdam” cùng các văn kiện quốc tế khác quy định việc trao trả lại bờ cõi cho Trung Quốc từng bị Nhật cướp giật năm xưa , hẳn nhiên trong đó kể cả quần đảo Nam Sa. Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc tự tin tuyên bố , những luận cứ và luận chứng trên của Trung Quốc là không chuẩn xác. Ông ý rằng , vào năm 1945 Nhật Bản đã bị các nước Đồng minh đánh đập trong cuộc chiến tranh thái hoà Dương nên phải quy hàng. Một trong những việc nước này phải làm khi quy hàng là từ bỏ các đất cát ở ngoại quốc mà Nhật Bản đã chiếm được trong thời kỳ lúa ra đòng toàn thịnh của chế độ quân phiệt , trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa , chứ không có nghĩa rằng nó thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Mặt khác , vào năm 1938 , trước khi xảy ra Chiến tranh thế giới thứ 2 , Nhật Bản đã chiếm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa , nói là để khai khẩn thương nghiệp nhưng thực tình chính là để lập căn cứ chiến lược ghi bàn đạp tấn công vùng Đông Nam Á. Đối với Tuyên cáo Cairo do 3 nước Hoa Kỳ , Anh và chính quyền Trung Hoa Dân Quốc ký kết ngày 26-11-1943 cũng chỉ chính xác các đất Mãn Châu , Đài Loan và Bành Hồ được giả cho Trung Quốc. Tuyên cáo Cairo đã không nói các bờ cõi khác ( trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa ) phải được giả cho nước nào. Đối với Tuyên ngôn Potsdam năm 1945 về việc ấn định các hoàn cảnh cho Nhật Bản quy hàng cũng hoàn toàn không đề cập tới vấn đề giả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Nhật Bản đã xâm lăng vào đầu Chiến tranh thế giới thứ 2. Lẽ hẳn nhiên là các cường quốc đã không ý rằng hai quần đảo này là phần bờ cõi của Trung Quốc. Điểm đặc biệt đáng chú ý hơn nữa là chính Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc - Tưởng Giới Thạch , đã tham dự cả hai hội nghị và đã ký vào cả Tuyên cáo Cairo lẫn Tuyên ngôn Potsdam. Ví như hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thực sự thuộc chủ quyền của Trung Quốc thì không có lí gì đại diện Trung Hoa Dân Quốc chỉ đòi giả có Mãn Châu , Đài Loan và Bành Hồ thôi song không đòi luôn Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa , trong bản văn của Tuyên cáo Cairo và Tuyên ngôn Potsdam chúng ta cũng không thấy từ “vân vân”để có khả năng nói là vấn đề đã được bao hàm trong hai văn kiện này. Từ tất cả các căn cứ khoa học và lịch sử nêu trên , Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc khẳng Định: “vấn đề trên là quá rỏ rành , những luận cứ và luận chứng mà Trung Quốc đưa ra trong vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam chẳng thể phủ nhận được các văn kiện của Bản Tuyên cáo Cairo , Thỏa ước Yalta , bản Tuyên ngôn Potsdam và sự thực lịch sử”. Giải quyết tranh chấp như thế nào? Về vấn đề giải quyết tranh chấp trên Biển Đông , nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc cho rằng: khi giải quyết bất kỳ vấn đề gì liên quan đến cửa khẩu và bờ cõi , chúng ta phải biết kết hợp các hình thức và biện pháp đấu tranh phù hợp đối với từng vụ việc phát sinh trên nguyên tắc quý trọng luật quốc tế , trông coi chủ quyền và lợi ích quốc gia , gìn giữ giao thiệp hữu hảo với các nước láng giềng , góp phần gìn giữ hòa bình , yên ổn trong khu vực và trên thế giới. Riêng đối với vấn đề thực tiễn có nhiều cách gọi khác nhau về Biển Đông: nước ta làm gọi là biển Đông , còn các văn bản quốc tế và bản đồ tiếng nước ngoài thì làm gọi là biển Nam Trung Hoa , nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc cho rằng: vấn đề đặt ra là một mặt chúng ta phải sinh dưỡng để cộng đồng quốc tế hiểu rằng biển Nam Trung Hoa là tên chứ không phải là thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Mặt khác , trong những hoàn cảnh có khả năng làm được chúng ta nên tiến hành đấu tranh về mặt luật quốc tế ngay từ bây chừ để có khả năng đổi tên biển Nam Trung Hoa thành một tên khác hợp lý hơn trong các giao thiệp quốc tế.( thực hành ) Thạch Sơn-Thành Luân
.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Một đôi cảnh nóng táo tợn trong phim của Lý Tiểu Long

Trong cả 4 bộ phim đưa Lý Tiểu Long lên hàng siêu sao võ thuật trên màn ảnh thế giới đều Lộ rõ ra hình ảnh các nhân vật nữ khỏa thân với góc máy khá bạo. Song , điện ảnh hong kong những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước còn rất bảo thủ nên Hãng Thiệu Thị ( Shaw Brothers ) và Lý Tiểu Long phải mời nữ diễn viên nước ngoài biểu thị những cảnh này. Đường Sơn đại ca ( 1971 ) Vì là tác phẩm trước hết nên ngoài những màn đánh nhau tưng bừng , nổi tiếng với cú đá liên hoàn mang tên "Lý tam cước" của Lý Tiểu Long , bộ phim Đường Sơn đại ca phải "vận dụng" cảnh nóng để lôi cuốn khán giả. Đoàn phim phải thuê người nước ngoài để đóng cảnh mẫn cảm trong phim Đường Sơn đại ca. Đường Sơn đại ca kể về một thanh niên quê kệch tên là Trịnh Triều An ( Lý Tiểu Long đóng ) vào làm mướn trong một xưởng sản xuất đá nhưng thực chất là trạm tải ma túy. Sau khi biết anh là người giỏi võ , chúng dùng tiền bạc và đàn bà để mua chuộc biến anh thành tay sai cho chúng. Tuy nhiên , chứng

Tìm điểm khác biệt Phụ nữ ngày xưa và nay

PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAY Ngày Quốc tế Phụ nữ Tám tháng Ba được kỷ niệm cùng với Lễ Hai Bà Trưng ngày Sáu tháng Hai âm lịch. Nhân ngày này, Hội Liên hiệp Phụ nữ trung ương cũng như địa phương thường nhắc "truyền thống phụ nữ Việt Nam" để cổ động "Vì sự tiến bộ của phụ nữ" mà không cảm thấy mâu thuẫn chút nào. Thế nhưng, bất cứ ai quan tâm đến quyền lợi giới đều có thể nhắc chúng ta quả thật lạ lùng nếu, giữa "bảo tồn truyền thống" và "đấu tranh vì tiến bộ", mục tiêu và vấn đề cần chú ý lại hoàn toàn thống nhất với nhau; huống nữa khi cuộc vận động tiến bộ cho phụ nữ diễn ra trong một xã hội thấm nhuần đạo lý Nho giáo tự lâu đời.  Nghiên cứu phụ nữ Việt Nam là lãnh vực chưa có nhiều người đi sâu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, cũng như trong toàn thế giới chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, người ta rất coi trọng "truyền thống lịch sử", trong đó có"truyền thống phụ nữ" và "người phụ nữ truyền thống". Từ khi mở cửa và bước đầu

Chấn chỉnh bất hợp lý liên lạc cầu cần thơ

Theo đó , cơ quan công năng hợp nhất kiến nghị Bộ giao thông tải đặt biển cấm xe tải trên 5 tấn và ô tô ca trên 25 chỗ ngồi lưu thông nhà thờ tổ tiên dẫn cầu Cần Thơ vào đường Quang Trung để giữ lại lượng xe dồn vào đường này. Ngoại giả các biển báo tại nút giao thông này sẽ được sửa đổi lại theo hướng Sửa sang nội dung chỉ dẫn về các tỉnh An Giang , Kiên Giang… Theo ghi nhận chiều 3-5 , tại nút giao thông IC3 vẫn có nhiều người lưu thông từ hướng cầu Cần Thơ muốn về cảng Cái Cui phải hỏi đường người dân địa phương khi lạc vào “mê hồn trận” tại nút giao thông này. Một số khách đến nút giao thông muốn vào phân biệt với tỉnh lộ 91 để về các tỉnh cũng chịu chung tình cảnh vì không biển báo nào chỉ dẫn hướng đi vào đường này. Trong khi đó , nền đường tại nút giao thông IC3 không được tráng nhựa khiến bụi đường bay mịt mờ. Do không được tráng nhựa , bụi bay mịt mùa tại lĩnh vực nút giao thông IC3 khiến người dân ngán ngại khi lưu thông vào lĩnh vực này - Ảnh: Chí Quốc